Từ nhiều cơ duyên, Huế may mắn sở hữu trong mình nhiều loại hình cảnh quan vườn, từ tư gia đến chùa chiền, từ nội đô đến ngoại thành, từ cung đình đến dân dã,... với những vẻ đẹp riêng, chứa đựng nhiều giá trị vật chất lẫn tinh thần, tạo nên một bức tranh tổng thể “vườn Huế” đa sắc, đa diện. Trong không gian đó, vườn chùa Huế với những đặc trưng về lịch sử hình thành, kiến trúc và cảnh quan, là nhân tố quan trọng tạo nên “Huế - thành phố vườn” trọn vẹn và hoàn chỉnh. Bên cạnh vẻ uy nghi, quan cách của vườn ngự ở cung điện, lăng tẩm, không gian ấm cúng, thân thiết của vườn phủ đệ hay dân gian, là khoảng tĩnh tại, thanh thoát của những ngôi vườn chùa, đã gắn vào tổng thể kiến trúc nơi đây “hài hòa như chính đạo Phật hòa tan vào lòng đời” với đầy đủ yếu tố triết mỹ. Vì vậy, “Tìm hiểu bản sắc văn hóa Huế không thể không tìm hiểu những vấn đề liên quan đến Phật giáo”.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn của thế giới. Ở Việt Nam Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất trên các mặt văn hoá, lối sống và đạo đức. Sinh tụ trên dải đất Trung bộ - một phần quan trọng của Việt Nam - vốn có mối quan hệ chặt chẽ về mặt địa hình với vùng Đông Nam Á lục địa, là khu vực nằm giữa ảnh hưởng của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa, xứ Huế tất hẳn sẽ mang trong mình hằng số chung về mặt địa lý, điều kiện tự nhiên cũng như mẫu số chung về các giá trị văn hóa đặc trưng của vùng miền, khu vực và châu lục. Nó vừa là giá trị nền tảng vừa là yếu tố chi phối và tạo nên những dấu ấn riêng của vườn chùa Huế trong sự đa dạng nhưng thống nhất. Có thể nhận thấy những nét đặc trưng nổi bật của vườn chùa Huế trong bức tranh cảnh quan chung qua những giá trị sau:
Thứ nhất, vườn chùa Huế mang những đặc trưng của sự cảm thụ không gian sống của văn hóa phương Đông qua 3 khía cạnh “Chân - Thiện - Mỹ”, trong mối quan hệ con người với con người, con người với tự nhiên hướng đến sự hoàn mỹ. Trên mẫu số chung, văn hóa phương Đông có nhiều khác biệt so với phương Tây, thể hiện trong mối quan hệ với tự nhiên, giữa tư tưởng “Thiên nhân tương dữ” và khát vọng chinh phục.
Thứ hai, vườn chùa Huế mang những dấu ấn văn hóa Đông Nam Á. Trên nền tảng chung về điều kiện tự nhiên, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nôi nông nghiệp trồng lúa, tín ngưỡng thờ cây,... văn minh Đông Nam Á là những giá trị riêng trong đối sánh với Đông Á, Nam Á, châu Âu. Đây là một “khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa” (Đinh Ngọc Bảo, 1994) độc lập, một phần được phản ánh trong sự khác biệt về văn hóa viên lâm so với vườn Nhật, vườn Trung Hoa, vườn phương Tây…
Thứ ba, vườn chùa Huế mang dấu ấn của không gian Việt truyền thống, phản ánh qua vẻ đẹp bình dị và đạm bạc. Trừ những khu vườn cảnh cổ xưa thường có những nét tương đồng với Trung Hoa hoặc Nhật Bản,... không gian cư trú thuần Việt mang những nét dân dã và mộc mạc, rất gần gũi với cuộc sống thường nhật của thôn quê với hình ảnh cây đa, cây khế, lũy tre, hàng chè tàu, cây cau, giếng khơi, lu nước,… và những ngôi nhà gỗ dân gian.
Thứ tư, vườn chùa Huế mang dấu ấn hòa quyện Tam giáo. Trong không gian chùa, nếu dấu ấn Nho giáo được biểu hiện qua sự chỉn chu và đăng đối, thì dấu ấn Đạo giáo được thể hiện qua sự u nhàn và thoát tục, và dấu ấn Phật giáo thể hiện qua vẻ thiền vị trong bố cục và thiết trí kiến trúc và cảnh quan.
Thứ năm, vườn chùa Huế mang dấu ấn Phật giáo, phản ánh qua những nét thiền vị. Vẻ đẹp ngôi chùa dù được làm nên bởi nét cổ kính của lịch sử, tính chỉn chu của viên lâm, vẻ giản dị của nhân cách Việt vẫn luôn đậm chất thiền vị cho sự hành trì và giác ngộ. Chất thiền vị trong không gian chùa Huế được biểu hiện trong bố cục, thiết trí các biểu tượng đặc trưng của Phật giáo (chữ vạn, bánh xe luân hồi, lưỡng long chầu pháp luân, quả bầu hồ lô, hoa sen,...); trong âm thanh tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng tụng kinh; trong hình ảnh tà áo lam, áo vàng, áo nâu thường ngày hay đại lễ; trong món chay,... Nó là sự tổng hòa những hệ giá trị văn hóa tâm linh, những biểu hiện thiền vị mà không phải khu vườn nào cũng có cho dù đạt được cảnh trí tương tự. Và tất nhiên, cảnh trí vườn chùa không mang nặng chất hưởng thụ những thú vui thanh cao trong sự an nhàn như đạo Lão, mà đặc biệt chú ý tạo nên sự thanh tịnh và tinh tấn, ấm áp và an lạc, để hỗ trợ tích cực cho việc hành trì giáo lý và điều kiện tu học.
Ngoài những nét đặc trưng nổi bật của vườn chùa Huế nói trên, vườn chùa Huế còn có những giá trị khác biệt so với những nơi có cảnh quan tương tự về kiến trúc và cảnh quan vườn, mang chất Huế trong vườn, chất thiền vị trong chùa.
Sự đa dạng và phong phú của cảnh quan
Xứ Huế nhỏ nhưng lại dung chứa hàng trăm ngôi chùa, từ hình dáng nguy nga đến vẻ mộc mạc, từ chốn đô thành quý tộc đến làng quê dân gian. Khó tìm thấy nơi nào trên đất nước ta có chùa chiền nhiều và tập trung như vậy. Sự đa dạng và phong phú của cảnh quan vườn chùa được tạo bởi các yếu tố:
- Địa hình cảnh quan, môi trường tự nhiên nơi tọa lạc các ngôi chùa: đồi núi, trung du, đồng bằng, ven sông, ven phá,…
- Nguồn gốc hình thành các ngôi chùa có sự tác động không nhỏ đến kiến trúc và cảnh quan, tạo nên sự khác biệt giữa chùa vua (quốc tự), chùa tổ (tổ đình) và chùa dân, chùa làng. Quốc tự ngay lúc ra đời đã có diện mạo quy mô, trong khi các tổ đình vốn là thảo am mái tranh vách liếp, trãi qua nhiều lần trùng tu, chú tượng, đúc chuông, khắc long vị ngài khai sơn, mới trở thành ngôi chùa lớn nhỏ khác nhau có đại hùng bảo điện, tăng xá, trai đường, thiền trù,… Nguồn gốc và thời điểm tạo dựng khác nhau trải dọc theo chiều thời gian đã làm cho chùa chiền ở Huế ngày càng phong phú và mật tập.
- Điều kiện kinh tế - xã hội: trong quá trình tồn tại và phát triển, sự ngoại hộ trùng hưng từ nhiều tầng lớp trong xã hội và hoàng triều (vua, hoàng hậu, quan lại, công chúa, cung tần, thái giám, mệnh phụ phu nhân), từ nhiều mục đích và nhu cầu khác nhau (vật chất, tiền bạc, công sức) đã tôn tạo cảnh quan, sửa sang vườn tược, cúng nhà rường,… tạo nên cho mỗi ngôi chùa một dấu ấn riêng về mặt tư tưởng, bố cục, quy mô và kiến trúc cảnh quan.
- Cuộc chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX cũng là những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên hệ thống chùa chiền phong phú và phổ biến, đặc biệt ra đời loại hình chùa khuôn hội, các Niệm phật đường trên cơ sở chùa làng cũ hoặc xây mới.
- Kiến trúc và bố cục các ngôi chùa: tiếp nối truyền thống kiến trúc chữ “Công” (工), chữ “Tam” (三), hay “Nội công ngoại quốc”, “Quốc” (国) từ đất Bắc, chùa Huế còn có sự hiện diện của cấu trúc chữ “Nhất” chùa Thiên Mụ; chữ “Môn” (門) như chùa Hải Đức; và phổ biến nhất là chùa chữ “Khẩu” (口) như chùa Báo Quốc, Quốc Ân, Thuyền Tôn, Từ Hiếu, Trúc Lâm, Tây Thiên, Đông Thuyền, Tường Vân, Từ Ân… Theo đó, cảnh quan chùa cũng bị chi phối bởi lối bố trí các tòa kiến trúc, hình thành nên các khu vườn khác nhau về vị trí (vườn tiền, vườn hậu, vườn nội, vườn ngoại), chức năng (vườn cảnh, vườn thực phẩm, vườn thuốc), hệ cây cối (cây cao, cây thấp, cây quả, cây hoa, cây hương, cây ăn, cây uống),…
- Vai trò vị sư trụ trì cũng tạo nên nhiều sắc thái khác nhau trong bố cục cảnh quan và kiến trúc chùa từ năng lực cảm thụ và ý đồ thiết kế của người đứng đầu ngôi chùa trong việc tạo nên không gian mang dấu ấn riêng.
Sự hòa điệu giữa cảnh quan và kiến trúc
Chùa Huế cơ bản vẫn tiếp nối kiến trúc truyền thống chùa Việt, nhưng mang những nét riêng, vườn chùa mang đậm tinh thần “tri túc”, sự khiêm tốn, ẩn mình dưới cây cối, soi bóng xuống hồ nước, hòa tan vào thiên nhiên. Không gian chùa Huế thể hiện cấu trúc chữ “Công” hay chữ “Khẩu”, những nét đặc trưng được làm nên từ lối đi, kiến trúc cổng tam quan, tiền đường và Đại hùng bửu điện, sân trong với hồ nước bể cạn, hòn non bộ, tăng xá bao quanh, vườn nội trồng chậu cảnh, vườn hậu trồng cây thực phẩm hoặc cây thuốc, vườn ngoại là cây lưu niên, cây ăn quả, và hàng rào thường là những dãy chè tàu, cây dại. Bên cạnh đó là sự hiện diện của mộ tháp ở khu “vườn tháp”, là những dấu tích về lịch sử ngôi chùa, sự tu chứng của các vị thiền sư. Các khu “vườn tháp” nổi tiếng ở Huế là mộ tháp thiền sư Liễu Quán, Nguyên Thiều, chùa Thiên Mụ, Tây Thiên, Báo Quốc,… “Toàn bộ khu vực chùa như vậy là một toàn cảnh mà quá khứ gắn liền với hiện tại, nơi thờ phụng gắn liền với sinh hoạt, tu tập, nơi an trú di thể của các vị sư tiền bối và nơi chiêm nghiệm của người đang sống” (Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách, 1993). Bố cục cho thấy sự hòa quyện giữa nhà cửa và cây cối, giữa thiên nhiên và kiến trúc, giữa quá khứ và hiện tại, giữa đạo và đời, phản ánh nét đẹp của một tổng thể hài hòa trầm mặc và thanh thoát.
Dù là kiểu bố cục nào, ta luôn thấy những không gian xanh tràn ngập bao quanh, rõ nhất là ở cấu trúc hình chữ “Khẩu”, một trong những kiểu đặc trưng của chùa Huế. Những công trình kiến trúc chính và phụ, những khu vườn lớn và nhỏ, đều chan hòa và đồng điệu trong không gian xanh. Những khu vườn nhỏ quây quần và hòa hợp trong một khu vườn lớn, góp vào cái chung những dấu ấn riêng của mình: vườn chùa Báo Quốc mang vẻ hồn xưa tĩnh mặc; vườn chùa Tra Am với hàng trúc reo bên bờ suối; vườn chùa Từ Hiếu thấp thoáng trong rừng cây soi bóng dưới hồ bán nguyệt; vườn chùa Huyền Không hấp dẫn bởi vườn lan bốn mùa nở hoa tỏa hương,… Trong vườn chùa xưa của phái Thiền Tông thường chú trọng đến “Thập cảnh” trong việc tạo cảnh sắc thiên nhiên xung quanh, dựa vào “mười yếu tố tự nhiên” giữa khe, núi, đá, suối và lầu, đình, đài, vườn cảnh,… hướng đến sự hài hòa cân xứng.
Sự in đậm dấu ấn tự nhiên trong cảnh quan vườn chùa
Trong thời kỳ đầu, cảnh quan thiên nhiên như cây cỏ, suối, khe, hoa lá,… là yếu tố tạo khởi duyên cho sự hiện diện ngôi chùa ở xứ Thuận Hóa. Nét trữ tình của sơn thủy nơi đây là những gợi ý của tạo hóa cho con người tổ chức không gian tu thiền của mình. Đa số chùa Huế đều tọa lạc ở những vị trí cao bên sườn đồi, nép mình hoặc lẫn vào trùng điệp núi đồi, rừng cây. Điều này tạo cho chùa Huế một sắc thái cảnh quan đặc trưng từ con đường dẫn lên chùa cho đến cây cỏ xung quanh, trong cảnh trí u nhàn, thiên nhiên tĩnh lặng. Am tranh những ngày đầu là chốn tu hành, nên khu vườn chưa định hình rõ ràng mà thuận theo tự nhiên, thuần tính tạp mộc. Việc dựng am thất cho phù hợp với cảnh quan sơn thuỷ là điều các Tổ sư quan tâm. Việc “quy hoạch” một mảnh vườn để trồng rau, một gốc mít, gốc khế... cũng phải chọn lựa để vừa tạo nguồn thực phẩm, vừa làm nơi che mát hay lấy quả trái, đồng thời tạo dáng vẻ trầm mặc cho cảnh quan thiền tự một sự ung dung tự tại, giúp giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh. Thiên nhiên được tái tạo một cách kỳ diệu và kín đáo, sự đơn giản, mộc mạc xen chút hoang sơ, phản ánh một cuộc sống bình dị của các vị thiền sư: “…Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá. Sư cụ nằm chung với khói mây…” (Thơ Nguyễn Khuyến).
Trong vườn chùa, cây cảnh không chỉ tùng, trúc, sanh, si... mà còn có hệ cây vùng gò đồi như sim, mua, tràm, chổi... “Chất vườn rừng trong không gian cây xanh quanh những ngôi nhà Huế phải được xem là ấn tượng đầu tiên khi tiếp cận với nó” (Nguyễn Hữu Thông, 2002). Vườn chùa Từ Hiếu là một ví dụ điển hình “vườn rừng”, vừa là lợi thế vừa là một đặc trưng riêng, bởi thế các vị trụ trì hầu như không tác động và thay đổi cảnh quan vốn có. Vườn chùa Từ Hiếu luôn tạo cho mọi người có cảm giác an tĩnh, thư thái với không gian đậm chất thiền vị xen lẫn hồ nước, cây cối, nhà cửa,… vốn được xem là “mô hình chùa Huế” (Hà Xuân Liêm, 2010).
Sự thể hiện vai trò tự cung tự cấp của vườn chùa
Quang cảnh sinh động và đa dạng từ nhiều loại cây trồng là đặc điểm nổi bật của vườn chùa nói riêng và vườn Huế nói chung. Trong vườn chùa, bên cạnh một số cây mang những ý nghĩa vượt ra ngoài “kiếp sống bản nguyên” như bồ đề, mít, đại, thông, trúc, tre, sung,… là một hệ thống phong phú cây phục vụ đời sống thường nhật. Điều dễ nhận thấy là tính chuyên canh không cao của ngôi vườn, “Trong vườn mít sai trái chín, dừa kết chùm xanh, giậu thuốc thấp cao, giàn hoa rực rỡ” (Thích Đại Sán, 1963). Những tổ chức tín ngưỡng như chùa Huế vốn nặng chất khép kín, tự cấp tự túc về mọi mặt. Mỗi ngôi vườn đều tự đảm nhận nhiều chức năng, trong đó có vai trò cung cấp đa nguồn lương thực, thực phẩm. Để đáp ứng nhu cầu thực phẩm ăn uống hàng ngày, sản vật bẻ hái hàng mùa, hoa trái dâng Phật háng tháng, trong không gian chùa Huế tồn tại nhiều khu vườn: vườn hoa dùng để cúng (phượng, hoàng anh, mỏ keo, hoa chuối), vườn hương liệu (sói, tường vi, ngâu, lài, mộc), vườn dược liệu và gia vị (ngãi cứu, hành, riềng, sã, ớt, rau tờn, long tu, lá lốt, rau thơm, rau răm, quế, húng), vườn cây cảnh (tùng, trúc, mai, si, hoa lan, hồng, cúc, dạ lý, hoàng lan, ngọc lan, quỳnh, bại hoại), vườn cây nguyên liệu (lá chuối, lá dong, lá gai),… Trong đó, sự hiện diện của hệ cây dại (rau má, mã đề, rau trai, me đất, ngò tây, rau rìu, rau éo),… phản ánh đặc trưng vườn chùa với sự đa dạng và phong phú của thảm thực vật vùng bán sơn địa phía tây Thừa Thiên Huế. Những ghi chép của Hoà thượng Thích Đại Sán trong “Hải Ngoại kỷ Sự” cũng thấy đặc tính này của chùa ở Huế xưa (XVII): “Luống rau, giàn bầu, bồn hoa, bụi cúc, rải rác ở các nơi đất trống dưới gốc tùng. Phía sau điện có những cây tùng lớn mấy ôm, ngọn queo cành cỗi, rậm rạp ly kỳ, thực là những thiên niên cổ thụ; trên đọt tùng sầm uất, lá soắn thành từng nắm tròn...” (Thích Đại Sán, 1963).
Sự phản ánh tinh thần “Thiên nhân tương dữ”
Môi trường thiên nhiên ở chùa Huế, nhất là các tổ đình luôn thể hiện quan niệm “thiên nhân tương dữ” – một triết lý phổ biến trong văn hóa phương Đông (Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, 2006), mối quan hệ tương hợp giữa trời và người. “Bố cục vườn chùa nói riêng và vườn Huế nói chung thường thuận theo khung thiên nhiên, không hoành tráng đến thách thức để khẳng định mình trong việc tái dựng lại cảnh trí cư trú” (Nguyễn Hữu Thông, 2002). Thậm chí đôi khi mặc dù chiếm vị trí trung tâm nhưng kiến trúc vẫn như cố thu mình lại trước cây cối thiên nhiên: sự mảnh dẻ của tam quan, sự thanh thoát của mái đao, sự trầm lắng của màu sắc trang trí,… Cửa chùa Huế luôn rộng mở đón mọi người, dù những môn đồ của tư tưởng nhập thế hành đạo, vô vi hay quần chúng bình dân chất phác. “Tam quan chùa Huế, trừ một vài ngôi quan tự, quốc tự có nét đồ sộ, uy nghi, tất cả là những vòm cổng, lối vào rộng mở hiền hòa như sẵn sàng đón nhận mọi sự dừng chân dù để chiêm bái hay tham quan, vãn cảnh, tìm kiếm không gian yên tĩnh” (Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách, 1993).
Dù tiếp cận ở góc độ nào, ta cũng thấy mối quan hệ mật thiết giữa thiên nhiên và con người trong không gian vườn chùa. Sự hòa hợp với thiên nhiên là mục đích mà các vị tăng chúng, tri viên hướng tới trong việc thiết trí cảnh quan chốn tu thiền, không tạo vọng động trong tâm thức con người. Nó cũng chính là biểu hiện của chữ “Hòa”, vốn giữ vai trò chi phối nghệ thuật xây chùa, làm vườn, tạo cảnh... “Đây chính là một bài pháp vô ngôn về sự viên dung giữa tâm và cảnh của chư tổ và các vị tiền bối mà các thế hệ tiếp nối phải đặc biệt quan tâm, kế thừa” (Trí Năng, 2009). Vườn là thiên nhiên và thiên nhiên cũng là vườn, đều lấy chữ “Hòa” làm trọng, không bao giờ là tư tưởng chiếm lĩnh hay làm chủ thiên nhiên. Điều này cũng gần gũi với tư tưởng Phật giáo trong quan điểm tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên.
Từ thảo am đến đại tự, từ kiến trúc đến cảnh quan vùng đất bằng hay trên đồi núi, cho dù bắt nguồn từ nhiều nhân duyên, khởi thủy chùa Huế vẫn luôn thể hiện triết lý lấy thiên nhiên làm môi trường sống, tu hành, "lấy thiên nhiên làm đạo tràng hành đạo giải thoát giác ngộ". Tất cả các vị thiền sư xưa đến Thuận Hoá đều chọn những vùng đất có cảnh quan thiên nhiên sông núi hữu tình lập ra những am tranh, lều cỏ để tu hành và hoằng pháp. Khẳng định cho điều này, có học giả nhận định: “Tìm cho ra được mối liên hệ giữa tinh thần, trí tuệ của các ngài sơ Tổ với môi trường thiên nhiên “đẹp man dại” đó, chúng tôi nghĩ là chúng ta đã tìm được sắc thái đặc trưng của chùa chiền và Phật giáo vùng Huế vậy” (Hà Xuân Liêm, 2010).
Sự phản ánh triết lý sống con người Huế
Vườn chùa Huế có một lịch sử ra đời và định hình gắn chặt với Phật giáo, từ những thảo am của thời kỳ đầu đến các ngôi đại tự thời Nguyễn là sự chuyển biến từ “vườn tạp” nặng chất tự nhiên sang “vườn cảnh” mang tính chỉn chu, tạo nên nét đặc trưng riêng so với vườn phủ, vườn ngự hay vườn lăng. Trên nền tảng chung đó, trong quá trình giao lưu và phát triển, Phật giáo cũng như chùa Huế bị tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên, bối cảnh xã hội và lịch sử, đã tạo cho vườn chùa những dấu ấn riêng thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Điều kiện tự nhiên: chi phối đến hệ cây trồng và địa hình cảnh quan, vườn chùa mang tính chất vườn rừng, vườn đồi, vườn trung du; sự hiện diện hệ cây dại, cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây làm nguyên liệu; sự đạng dạng về địa thế của mỗi ngôi chùa,…
- Điều kiện xã hội: chi phối đến nguồn gốc ra đời và hình thành một số ngôi chùa về mặt kiến trúc và cảnh quan qua việc cúng dường, ngoại hộ cho việc trung hưng, kiến hưng, đúc tượng,…
- Điều kiện lịch sử: Diện mạo chùa Huế cõ những biến đổi lớn trong các giai đoạn, [1] giai đoạn chúa Nguyễn với chính sách “cư Nho mộ Thích” đã đưa đến sự phổ biến và mật tập của tổ đình và quốc tự, [2] những năm đầu thế kỷ XIX dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng, nhiều cuộc trùng hưng lớn, quy mô đã góp phần tạo nên diện mạo chùa Huế về kiến trúc và cảnh quan, số lượng chùa mới ra đời như chùa Thiên Mụ, Báo Quốc, Quốc Ân, Thuyền Tôn, Thiền Lâm, Viên Thông, Viên Giác, Phước Thành, Kim Tiên, Thánh Duyên, Đông Thuyền, Hà Trung; là thời kỳ khai sáng các chùa Thiên Hưng, Quảng Tế, Giác Hoàng, Linh Hữu, Diệu Đế, Từ Hiếu, Linh Quang, Kỳ Viên, Tường Vân, Long Quang,… (Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách, 1993); [3] những năm đầu thế kỷ XX, phong trào chấn hưng đã làm thay đổi mọi mặt Phật giáo Huế, đưa đến sự chính thống, chuẩn hóa việc thờ phụng, thiết trí và tạo dựng cảnh quan chùa chiền. Trong đó đáng lưu ý là sự ra đời của loại hình chùa Khuôn hội – Niệm phật đường (các chùa Khuôn hội như Dương Biều (Long Thọ), Kim An, Thuận Hóa, Tịnh Bình, Vĩnh Nhơn, Thành Nội, Thường Lạc,…). Và [4] giai đoạn hiện nay, với những biến đổi mạnh mẽ về kiến trúc và cảnh quan nhằm đáp ứng cho mục đích hoằng pháp trong bối cảnh xã hội mới.
Vườn chùa Huế cùng với các vị tu hành không chỉ mang đến cảnh quan tuyệt thế mà còn là tư duy, là cách sống, phong tục, là tôn ti trật tự gia đình và xã hội, góp phần vào sự hình thành đời sống văn hóa tinh thần vùng Thuận Hóa. Những triết lý nhân sinh của Phật giáo, cửa tam quan rộng mở, tiếng chuông vang hôm sớm, lên chùa lễ Phật hàng tháng,… đã trở thành những điều quen thuộc và gần gũi trong tâm thức người Huế. "Nghe tiếng chim hót, uống một ngụm trà sớm, nhìn một đóa hoa mới nở, tiếng lao xao của cây lá, một mảng rêu, một khóm lan, một chậu cảnh... Với cách sống ấy, không chỉ huấn tập một thói quen điềm tĩnh, lòng yêu thiên nhiên, mà còn là một liều thuốc trị bệnh tốt cho cả thể chất lẫn tinh thần" (Nguyễn Hữu Thông, 2002). “…Khách có tản bộ lên chơi thì tự nhiên phát thiện tâm và tiêu tan niềm tục. Thật là cảnh trí nơi tiên Phật” (Dương Văn An, 1997).
Vườn chùa Huế luôn có sự hiện diện của một số cây gắn với tư tưởng, con đường tu tập và hoàng pháp của Phật giáo như cây bồ đề, mít, đại, thông, trúc, tre, sung, muỗm… như nhắc nhở kẻ hành hương “dẹp lòng trần khởi lòng tĩnh”, chánh tâm niệm Phật. Ví như cây bồ đề là hiện thân của sự giác ngộ, sáng suốt và minh triết, cây đại là hệ cây thiên mệnh, cây sung tượng trưng cho cây vô ưu, diệt trừ 108 điều phiền não, cây thông, tung biểu tượng của người quân tử, cốt cách thanh thoát, cây tre tượng trưng cho sự đông đúc, cây trúc tượng trưng cho người quân tử, cây mít là cây đáo bỉ ngạn, đại trí tuệ… (Trần Lâm Biền, 1995). Đặc biệt, ở vườn chùa Huế còn có sự hiện diện tháp mộ của các vị tổ sư, hòa thượng, tạo nên khu “vườn tháp mộ” (tháp tăng).
Vườn chùa Huế là cảnh giới của sự tịnh tâm, không chỉ là nơi thưởng ngoạn cái đẹp mà còn giúp con người tĩnh tâm, đắm mình vào cỏ cây hoa lá hiền hòa, bởi cây cối trong vườn chùa luôn mang những nét đối trọng với cuộc sống ồn ào nhộn nhịp bên ngoài. Sự e ấp kín đáo, trầm mặc, không đồ sộ, không lộng lẫy của vườn chùa luôn mang lại cảm giác thư thái, tĩnh tâm, đầy chất thiền, hướng lòng người thành tâm về đức Phật. Vì vậy, sau khi vào đảnh lễ Phật ai cũng dừng chân nơi sân chùa, vườn chùa để tịnh tâm và chiêm nghiệm.